- 29/08/2020
- ĐIỂM ĐẾN MỚI
- Tags: Ba Na, Êđê, J’rai, Lễ bỏ mả, Tây Nguyên, Tín ngưỡng, Tượng Nhà Mồ, Văn Hóa, Xơ Đăng
Tượng Nhà Mồ, nét văn hóa đặc biêt của Tây Nguyên
Nói đến vùng đất Tây Nguyên là nói đến một kho tàng văn hóa đặc sắc từ đời sống tinh thần như: Lễ hội, nhạc cụ, ẩm thực cho đến nghệ thuật điêu khắc và nổi bật hơn cả là tượng nhà mồ được các nghệ nhân buôn làng J’rai, Ba Na, Êđê, Xơ Đăng,… làm ra phục vụ cho lễ bỏ mả.
Theo quan niệm tâm linh của đồng bào Tây Nguyên khi một người từ bỏ trần gian để về với Yàng – “chết” không có nghĩa là chấm hết mà là sự trở về núi rừng, nơi con người sinh ra. Linh hồn người mới khuất đó cứ lẩn quẩn gần nơi chôn, lưu luyến với cuộc sống dương thế. Người thân hàng ngày phải mang cơm nước đến, quét dọn nhà mả, gọi là thời kỳ giữ mả. Chỉ sau khi lễ bỏ mả diễn ra, linh hồn được siêu thoát, không còn lưu luyến với cuộc sống trước đây thì người sống cũng yên tâm trở về làm ăn, không còn lo lắng hồn ma quấy phá dương gian.
Thường thì người chết từ một năm trở lên hoặc cũng có khi kéo dài đến hàng chục năm sẽ được làm lễ bỏ mả. Đây là ngày hội mừng người sống được gặp gỡ, chung vui lần cuối cùng với người đã khuất, trước khi tiễn biệt họ về một thế giới khác.
Kể từ đây, người sống không phải chăm lo cơm nước hằng ngày ở nhà mồ, không có đám giỗ hàng năm cho người chết. Chỉ sau khi làm lễ bỏ mả, người sống mới yên tâm rằng mình đã làm tròn bổn phận với người đã khuất. Linh hồn họ mới có thể tái sinh vào kiếp khác, sống một cuộc đời mới. Cũng bởi thế người sống đã tạc rất nhiều tượng gỗ thể hiện sinh động cuộc sống trần tục dựng xung quanh nhà mồ của người chết.
Khu nhà mồ của đồng bào Tây Nguyên được xây dựng trong rừng; có mái nhà, tường… người sống sẽ để toàn bộ vật dụng mà người chết đã từng dùng trong đó. Đây còn gọi là tục chia của cho người chết. Bởi theo quan niệm của người Tây Nguyên, người chết sẽ có cuộc sống riêng, phải trải qua 7 kiếp luân hồi để được trở về làm người nên nhà mồ được chăm chút rất cẩn thận.
Nghệ thuật tượng mồ còn bắt nguồn từ bản thân sự sống động của mỗi bức tượng. Hầu hết các bức tượng đều diễn tả các trạng thái động của con người. Người Gia rai khi tạc tượng đã làm cho cho từng bức tượng trở nên sinh động như có hồn. Khi tham dự lễ bỏ mả của người Gia rai, được chiêm ngưỡng tượng mồ sẽ chúng ta có cảm giác như mình đang có mặt tại chính buôn làng của họ với các hoạt động quen thuộc của con người diễn ra trong lễ hội bỏ mả. Nghệ thuật chính là đem đến sự gần gũi thân thuộc của cuộc sống đời thường vào trong tác phẩm một cách tự nhiên.
Nhà mồ được xây dựng tập thể, người già nhiều kinh nghiệm thì chịu trách nhiệm trang trí mỹ thuật, còn thanh niên trai tráng thì dựng cột và làm những việc nặng nhọc. Khi đo đạc làm nhà mồ, người ta không dùng thước mà dùng những đơn vị cơ thể người, ví dụ: 1 hapa (một sải tay), 1 hlok (1 cánh tay), 1 hagan (1 bàn tay)…Đây cũng là một nét độc đáo trong kiến trúc dân gian Tây Nguyên.
Theo chu trình dựng nhà mồ, để tiến hành nghi lễ bỏ mả, việc đầu tiên của người chủ hộ là đẽo tượng mồ. Nếu như một ngôi nhà mồ dự định bỏ vào tháng 3 trong năm, thì từ tháng 1 năm đó người chủ hộ đã bắt đầu kiếm gỗ đẽo tượng. Ở những ngôi nhà mồ to đẹp, bề thế trước đây, cột tượng thường được làm bằng loại gỗ tốt như gỗcây hương, cây cà chít. Tuy nhiên, thời gian gần đây do những loại gỗ tốt cạn kiệt, người dân không thể kiếm được gỗ tốt nên hầu hết những ngôi nhà mồ khi tiến hành bỏ mả, người Gia Rai sử dụng các loại gỗ tạp, dễ trồng như gỗ cây gạo (pơ lang) để đẽo tượng.
Gỗ đẽo tượng được kéo về dựng tại nghĩa địa của làng, bên cạnh ngôi nhà mồ sắp bỏ mả, trước khi đẽo tượng mồ, người Gia rai có cúng thần nhà rông (yang rôông), thần bến nước (yang ia), xin phép đẽo tượng mồ cho người chết ở trong làng, lễ cúng thường được mổ lợn làm vật hiến sinh. Dụng cụ đẽo tượng hữu hiệu và thông dụng nhất là chiếc rìu (jong), dụng cụ có một đầu lưỡi sắc, một đầu lưỡi tù, cán được tra bằng một thanh gỗ dài. Một loại dụng cụ nữa là cây chà gạc dùng để sửa lại các chi tiết trên mặt tượng.
Xung quanh nhà mồ là một hàng rào có trang trí những bức tượng gỗ. Xưa kia, loại gỗ đẽo các bức tượng nhà mồ thường là các loại gỗ quý như gỗ hương, cà chit…Sau này, cây gạo được nhiều gia đình lựa chọn để thay thế. Sau khi chọn được gỗ, chủ hộ và những nghệ nhân tạc tượng sẽ di chuyển chúng lên gần nhà mồ để thổi hồn cho những khúc gỗ vô tri vô giác thành những bức tượng gỗ sống động đầy cảm xúc.
Những nghi lễ diễn ra xung quanh không gian nhà mồ đầy linh thiêng cũng là tập hợp những hoạt động văn nghệ dân gian như ca hát, nhảy múa, cồng chiêng, cúng tế, nấu ăn… của người Gia rai và Ba na. Tất cả kết hợp hài hòa, trở thành một pho sử sống vô cùng quý giá trên mảnh đất Tây Nguyên.
Đối với đồng bào Tây Nguyên, nhà mồ và tượng mồ được làm ra chỉ để phục vụ Lễ bỏ mả, sau đó những bức tượng đó được bỏ lại nghĩa địa. Qua thời gian cùng nắng mưa, những bức tượng đó sẽ bị hư hỏng, tan biến, trở thành cát bụi hòa lẫn vào đất mẹ. Trong khi đó, do không được bổ sung mới nên tượng Nhà mồ ngày càng vắng bóng tại các nghĩa địa của đồng bào địa phương.
Hiện nay, ở các khu nghĩa địa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, những ngôi mộ được xây bằng bê tông, cốt thép đang dần thay thế những nhà mồ truyền thống. Các nghệ nhân tạc tượng nhà mồ ngày càng ít đi. Sự chuyển dịch về tín ngưỡng, tâm linh cũng khiến tượng nhà mồ ngày càng mai một trong đời sống đồng bào Tây Nguyên.